Ở Việt Nam, Luật gia và Luật sư đều là những chức danh dành cho những người đang công tác trong ngành luật. Tuy nhiên, ranh giới giữa 2 chức danh này không phải ai cũng nắm rõ. Dưới đây là một số điểm khác nhau giữa Luật gia và Luật sư:
1. Văn bản điều chỉnh
Luật gia hoạt động theo sự điều chỉnh của Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 31/12/2009.
Luật sư chịu sự điều chỉnh của Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
2. Khái niệm
Luật gia là tất cả những người nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực có liên quan đến pháp luật nhưng phải có trình độ từ cử nhân trở lên.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
3. Điều kiện
Luật gia: Công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân, đã hoặc đang làm công tác pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập từ 03 năm trở lên.
Luật sư: Công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
4. Tổ chức tham gia
Luật gia: Hội Luật gia Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức thống nhất, tự nguyện của các luật gia trong cả nước.
Luật sư: Đoàn luật sư là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
5. Quyền và nghĩa vụ trong hoạt động nghề nghiệp
Đối với Luật gia
Luật gia là tên gọi khi tham gia làm Hội viên Hội luật gia. Luật gia không có chứng chỉ hành nghề, ngoài công việc chính tại các cơ quan, tổ chức, họ có thể tham gia hoạt động nghề nghiệp tại Trung tâm trợ giúp pháp lý với vai trò cộng tác viên hoặc là tư vấn viên, cộng tác viên tại các Trung tâm tư vấn pháp luật.
Việc hoạt động nghề nghiệp này của Luật gia tuân theo Luật trợ giúp pháp lý và Nghị định của Chính phủ về hoạt động tư vấn pháp luật.
Luật gia chỉ được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, dân sự, hành chính, cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc Trung tâm tư vấn pháp luật với tư cách là Bào chữa viên nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên Trợ giúp pháp lý hoặc Tư vấn viên pháp luật;
Luật gia không được thực hiện dịch vụ pháp lý có thu thù lao với tư cách cá nhân. Mọi hoạt động của Luật gia phải thông qua nơi cộng tác.
Đối với Luật sư
Luật sư sau khi có chứng chỉ hành nghề có thể chủ động đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân, mở Văn phòng luật sư, Công ty luật để hoạt động trong và ngoài nước hoặc làm việc theo dạng hợp đồng lao động cho các cơ quan, tổ chức.
Luật sư là chủ thể được tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, cung cấp dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp luật cho khách hàng với tư cách Luật sư. Được thỏa thuận thù lao với khách hàng trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý (trừ vụ án hình sự phải theo quy định của Nhà nước).
Luật sư được khuyến khích đăng ký trợ giúp pháp lý không thu thù lao hoặc làm cộng tác viên với Trung tâm trợ giúp pháp lý, Trung tâm tư vấn pháp luật.
Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa Luật gia và Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành mà mọi người cần phải hiểu rõ để phân biệt.
Nguồn bài viết: LuatVietnam